Chính sách cạnh tranh bao gồm tất cả các biện pháp của Nhà nước nhằm thực hiện việc duy trì cạnh tranh trên thị trường, một mặt chủ động tạo ra các tiền đề cho cạnh tranh, mở cửa thị trường, mặt khác thực thi các biện pháp chống lại các chiến lược hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Xem thêm:
– Tìm hiểu về người chơi hụi trong các vụ bể hụi
– Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân

1. Khái niệm chính sách cạnh tranh
1.1 Khái niệm
Chính sách cạnh tranh bao gồm tất cả các biện pháp của Nhà nước nhằm duy trì cạnh tranh, một mặt chủ động tạo ra các tiền đề cho cạnh tranh, mở cửa thị trường, loại bỏ các barrier cản trở xâm nhập thị trường, mặt khác thực thi các biện pháp chống lại các chiến lược hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp. Khái niệm chính sách cạnh tranh theo cách hiểu này bao gồm cả pháp luật, cơ chế bảo đảm thực hiện, cũng như những biện pháp kinh tế kích thích cạnh tranh trên thị trường. Có một cách hiểu chính sách cạnh tranh theo nghĩa hẹp, theo đó nó bao gồm các quy tắc và quy định nhằm thúc đẩy cạnh tranh trong một nền kinh tế quốc dân, một phần thông qua việc phân bổ có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên.
Với cách hiểu này, pháp luật cạnh tranh là nội dung cơ bản của chính sách cạnh tranh. Nó bao gồm các quy định chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và những biện pháp chống các hành vi hạn chế cạnh tranh. Trong phạm vi của nội dung này, chính sách cạnh tranh được giới thiệu theo nghĩa rộng, bao gồm tổng hợp các biện pháp xây dựng môi trường cạnh tranh trong đời sống kinh tế, các biện pháp duy trì trật tự cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trong đó, nội dung quan trọng của pháp luật cạnh tranh với hai bộ phận cấu thành cơ bản là pháp luật chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Điều đó làm cho chính sách cạnh tranh của các nước luôn có những nết đặc thù khác nhau. Thậm chí ngay trong một quốc gia, chính sách cạnh tranh có nhiệm vụ và nội dung được thay đổi theo từng thời kỳ. Có thể thấy được những vấn đề nói trên bằng việc khảo cứu chính sách cạnh tranh của một số quốc gia điển hình.
1.2 Vai trò của chính sách cạnh tranh
Chính sách cạnh tranh có những vai trò như sau:
– Tạo lập, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, bình đẳng, minh bạch.
– Thúc đẩy cạnh tranh, bảo đảm quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
– Tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ
– Tạo điều kiện để xã hội, người tiêu dùng tham gia quá trình giám sát việc thực hiện pháp luật về cạnh tranh.

2. Yêu cầu điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh
Vai trò điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh là kết quả của sự nhận thức đối với thị trường và đối với cạnh tranh. Mặc dù ngay từ những ngày đầu khai sinh ra mô hình cạnh tranh tự do, nhà kinh tế học lỗi lạc Adam Smith đã đặt vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với cạnh tranh như một con chó canh cửa (watch dog) cho thị trường bằng chức năng chống ngoại xâm, đảm bảo trật tự xã hội và công bằng trong lợi ích. Nhưng sau đó, sự lên ngôi của bàn tay vô hình đã xoá mờ những cảnh báo của ông đối với những biến dạng của thị trường. Vì thế vai trò của Nhà nước trở nên mờ nhạt đối với cạnh tranh. Cho đến nay, khi nhận thức về tính hai mặt của cạnh tranh không còn nằm trong các lý thuyết kinh tế kinh điển hay hiện đại mà đã được kiểm chứng bởi thực tế thị trường thì yêu cầu điều tiết của Nhà nước lại càng trở nên bức thiết.
Dưới góc độ lý luận luật học, vai trò điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh được xác lập dựa trên các quan điểm cơ bản sau đây:
2.1 Quan điểm về giới hạn của sự tự do.
Ngay từ thời cổ đại, nhà triết gia Hecralit đã tuyên bố ta sẽ giải phóng các người bằng pháp luật. Tư tưởng về sự tự do không đồng nghĩa với tự do vô chính phủ đã được xây dựng và hoàn thiện cùng với những đấu tranh của loài người cho một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn. Theo đó, mọi sự tự do quá trớn và không trật tự đều tạo ra nguy cơ tiêu diệt tự do. Bởi hành vi tự do quá trớn của một người có thể xâm hại tự do của người khác và cuối cùng cả hai đều bị mất tự do. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự tồn tại của tự do, có như thế các nguồn lực thị trường mới có thể vận hành tốt và đem lại hiệu quả cho sự phát triển. Nhận thức về sự tự do luôn gắn liền với nhu cầu phải gạt bỏ các biểu hiện nhân danh tự do để hủy hoại sự tự do. Sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật sẽ giải phóng mọi sự kiềm toả của các biểu hiện bất chính đó đối với tự do của những người đang bị xâm hại.
2.2 Sự bất lực của bàn tay vô hình trước những thủ đoạn để giành giật lợi ích kinh tế trong cạnh tranh
Khi đứng ngoài đời sống thị trường, các Nhà nước tư sản đã nhận thấy được sự bất lực của bàn tay vô hình trước những thủ đoạn bất tận và bất chính do con người thực hiện để giành giật lợi ích kinh tế trong cạnh tranh. Lý thuyết về khả năng điều tiết thị trường của bàn tay vô hình dường như chỉ đem lại hiệu quả tối ưu cho thị trường khi các quan hệ mà quyền lực của bàn tay vô hình điều kiển hoàn toàn lành mạnh, khi các nhà kinh doanh là những chính nhân quân tử thì các quy luật của thị trường mới có thể phát huy tác dụng. Bàn tay vô hình của thị trường chỉ có thể thưởng cho người giỏi giang và tước đi lợi ích của người yếu kém trong kinh doanh, mà không thể trừng phạt những nhà kinh doanh có các toan tính không lành mạnh.
2.3 Thừa nhận vai trò điều tiết của Nhà nước nhưng không phủ nhận giá trị của thuyết bàn tay vô hình
Vai trò điều tiết có giới hạn của Nhà nước là sự hỗ trợ từ phía công quyền cho bàn tay vô hình của thị trường. Mọi biểu hiện không lành mạnh không thể bị loại bỏ bằng quyền lực của bàn tay vô hình sẽ bị điều tiết bởi các thiết chế quyền lực của bàn tay hữu hình của Nhà nước. Có nghĩa là, sự can thiệp của Nhà nước luôn phải tôn trọng các quy luật chung vốn có của nền kinh tế, tránh gây nguy cơ đe dọa đến sự tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, trình độ điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh phụ thuộc vào sự khéo léo trong việc xác định mức độ và sự tinh tế của các phương pháp điều tiết mà Nhà nước sử dụng để tác động đến các quan hệ thị trường. Cho đến nay, tất cả các quốc gia thừa nhận và thực thi nền kinh tế thị trường đều đã thừa nhận vai trò điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh. Trong các lý thuyết kinh tế hiện đại hay những nhà chủ thuyết làm mới lại các lý thuyết kinh tế cổ điển cũng đã khẳng định sự tất yếu và vai trò không thể thiếu của Nhà nước trong đời sống kinh doanh. Sự khác nhau chỉ là những nguyên tắc được đặt ra trong việc cân nhắc mức độ can thiệp của công quyền đối với thị trường cạnh tranh. Lịch sử phát triển của luật cạnh tranh trong gần hai thế kỷ qua đã cho thấy những thay đổi theo chiều hướng tích cực của ý thức pháp lý trong quan niệm và phương cách điều tiết thị trường của Nhà nước hiện đại. Các biện pháp mà Nhà nước sử dụng để điều tiết cạnh tranh gọi chung là chính sách cạnh tranh.

3. Vai trò, ý nghĩa của cạnh tranh
Cạnh tranh có những vai trò quan trọng sau:
Thứ nhất, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Cạnh tranh là sự chạy đua kinh tế, mà muốn thắng trong bất kì cuộc chạy đua nào cũng đòi hỏi phải có sức mạnh và kĩ năng. Cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình ngày càng nhiều khách hàng nên nó buộc các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao với giá thành ngày càng hạ. Cạnh tranh luôn mang đến hệ quả là doanh nghiệp nào có tiềm lực, có chiến lược kinh doanh đúng đắn, hiệu quả sẽ tiếp tục vươn lên tồn tại, doanh nghiệp nào không đáp ứng được nhu cầu của thị trường sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Bởi vậy, cạnh tranh là liều thuốc thần kì tạo động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ hai, cạnh tranh khuyến khích việc áp dụng khoa học, kĩ thuật mới, cải tiến công nghệ nhằm kinh doanh có hiệu quả. Điều đó dẫn đến kết quả là sẽ có nhiều sản phẩm tốt hơn sẵn có trên thị trường. Trong kinh doanh, doanh nghiệp nào có sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường với giá phải chăng thì nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận cao. Điều này khiến các đối thủ cạnh tranh về sản phẩm cùng loại phải quan tâm đến cải tiến về hình thức và chất lượng sản phẩm bằng cách áp dụng công nghệ mới, tiến bộ khoa học kĩ thuật. Vì vậy, cạnh tranh cũng là cơ hội bắt buộc các doanh nghiệp phải nghiên cứu tiếp cận với công nghệ mới, tiến bộ khoa học kĩ thuật vì chỉ có khoa học, công nghệ mới có thể trợ giúp hữu hiệu cho sản xuất, kinh doanh giảm giá thành sản phẩm, tăng tính năng và chất lượng sản phẩm. Như vậy, cạnh tranh còn là nguồn gốc, động lực để phát triển khoa học kĩ thuật và công nghệ cao.
Thứ ba, cạnh tranh dẫn đến giá thấp hơn cho người tiêu dùng và làm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Thông qua quy luật cung càu, cạnh tranh có khả năng nhanh nhạy trong việc phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Sự lựa chọn và sức tiêu thụ hàng hoá của họ là thước đo chính xác cho yêu cầu về chất lượng và độ phù hợp của một sản phẩm. Cạnh tranh gây tác động hên tục đến giá cả sản phẩm trên thị trường, buộc các doanh nghiệp phải phản ứng tự phát để chọn phương án kinh doanh sao cho chi phí nhỏ hiệu quả cao, chất lượng tổt để phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng. Bởi vậy, trong điều kiện có cạnh tranh, người tiêu dùng là thượng đế, là trung tâm thị trường quyết định sự sống còn của sản phẩm, buộc các nhà kinh doanh phải thoả mãn nhu cầu của họ. Người tiêu dùng có quyền lựa chọn sản phẩm mà họ muốn mua.
Thứ tư, cạnh ưanh buộc các doanh nghiệp cũng như các quốc gia phải sử dụng các nguồn lực đặc biệt là nguồn tài nguyên một cách tối ưu nhẩt.Khi tham gia thị trường có tính cạnh tranh, các doanh nghiệp phải cân nhắc khi sử dụng các nguồn lực vào kinh doanh. Họ phải tính toán để sử dụng các nguồn lực này sao cho hợp lí và có hiệu quả nhất. Do đó, các nguồn lực đặc biệt là nguồn tài nguyên phải được vận động, chu chuyển hợp lí để phát huy hết khả năng vốn có đưa lại năng suất, chất lượng cao.
Môi trường cạnh tranh là môi trường mà ở đó, các doanh nghiệp luôn phải vận động, đổi mới, cải tiến không chỉ công nghệ mà cả chủng loại, kiểu dáng, phương thức kinh doanh. Theo cách đó, cạnh tranh tạo ra sự đổi mới liên tục và động lực phát triển liên tục. Vì những lẽ trên đây mà một nhà nước văn minh trong cơ chế thị trường hiện đại phải là nhà nước có nhiệm vụ và chức năng phát hiện, thừa nhận bảo vệ và khuyến khích những khả năng và thuộc tính tốt đẹp của cạnh tranh. Bên cạnh đó, để khắc phục những khuyết tật của thị trường do cạnh tranh đem lại, mỗi quốc gia đều phải có chính sách cạnh tranh và trên cơ sở đó, điều tiết hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.

4. Nhu cầu điều tiết cạnh tranh của nhà nước
Cạnh tranh là động lực thúc đẩy nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh và có nhiều vai trò tích cực khác đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Đối với bản thân các doanh nghiệp, cạnh tranh làm giảm lợi nhuận nên các doanh nghiệp có xu hướng né tránh cạnh tranh. Cách tốt nhất để không phải cạnh tranh là có được sức mạnh thị trường để từ đó có khả năng chi phối, kiểm soát giá cả trên thị trường.
Sức mạnh thị trường được tạo nên bởi các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền hoặc các doanh nghiệp thoả thuận để hạn chế cạnh tranh trên thị trường hoặc tập trung sức mạnh kinh tế với nhau. Khi đã có sức mạnh thị trường, doanh nghiệp sẽ tìm cách tiêu diệt đối thủ cạnh tranh, ngăn cản sự gia nhập thị trường của đối thủ tiềm năng, đầu cơ lũng đoạn thị trường, tàng giá, giảm giá, phá giá tuỳ tiện gây tác hại nghiêm trọng đến lợi ích của người tiêu dùng và xã hội.
Do đó, để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng nhà nước cần điều tiết cạnh tranh, điều chỉnh các hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo đảm chúng không thao túng thị trường. Vai trò của nhà nước trong việc điều tiết cạnh tranh được thừa nhận ở tất cả các quốc gia phát triển theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước luôn phải tôn trọng các quy luật chung vốn có của thị trường đồng thời không làm ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Để điều tiết cạnh tranh, nhà nước sử dụng chính sách cạnh tranh (competition policy).