Thứ Sáu , Tháng Sáu 9 2023

Tiểu luận: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính

TÊN ĐỀ TÀI: “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính”.

Định dạng: PDF | Word. Độ dài: 30 trang A4.

Xem thêm:

Nguyên tắc tranh tụng trong vụ án hành chính

PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Tranh tụng trong tố tụng hành chính là một quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong quá trình đó các chủ thể tham gia tố tụng được đưa ra chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính quy định. Tranh tụng trong tố tụng hành chính là khâu đột phá của hoạt động tố tụng, tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 48-NQ/TW; Nghị quyết số 49-NQ/TW; Kết luận số 79-KL/TW; Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị đã xác định tầm quan trọng của tranh tụng trong hoạt động tố tụng. Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng ta về quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Từ đó thể hiện tầm quan trọng của vấn đề tranh tụng của hệ thống pháp luật nói chung, và tranh tụng trong tố tụng hành chính nói riêng, trong hoạt động xây dựng pháp luật và phù hợp với quá trình cải cách tư pháp của nước ta.

  1. Mục tiêu, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu của đề tài

* Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu những vẫn đề lý luận về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính, các quy định của pháp luật liên quan đến tranh tụng và các quy định của pháp luật liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính. Phản ánh những bất cập trong các quy định của pháp luật về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hành chính và thực tiễn để đưa ra những kiến nghị giúp nâng cao vai trò của tranh tụng trong tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng, trước Tòa án.

* Nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của đề tài:

– Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng  hành chính, đưa ra khái niệm về tranh tụng trong tố tụng hành chính, chức năng và vai trò của các chủ thể cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng trong quá trình tranh tụng trong tố tụng hành chính.

– Nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về các nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính.

– Đưa ra so sánh về tranh tụng theo luật tố tụng Hành chính năm 2010  và theo luật tố tụng hành chính năm 2015.

– Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng trong tố tụng hành chính.

–  Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố tụng hành chính căn cứ theo quy định luật tố tụng hành chính năm 2015.

  1. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Để nghiên cứu đề tài tác giả đã dựa trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước về pháp luật, về cải cách tư pháp; đồng thời tác giả có sử dụng và tham khảo bài viết của các chuyên gia đầu ngành về pháp luật.

Ngoài ra, để hoàn thiện tốt đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp các văn bản luật, dưới luật, để phân tích vấn đề.

  1. Phạm vi nghiên cứu

Với đề tài: “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính” trong phạm vi của một tiểu luận tác giả không thể xem xét, giải quyết hết tất cả mọi vấn đề mà chỉ dừng lại những vấn đề cơ bản của tranh tụng khi giải quyết vụ án hành chính; vấn đề về mục đích, phạm vi thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hành chính, những quy định của Bộ luật tố tụng hành chính năm 2015 và qua đó tác giả cũng đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự.

  1. Bố cục đề tài

Đề tài: “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính”

Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài có bố cục như sau:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tranh tụng trong tố tụng hành chính

Chương 2. Thực trạng, và đề xuất kiến nghị tranh tụng trong tố tụng hành chính

Trọng tài thương mại (Commercial Arbitration) là gì? Thẩm quyền của trọng tài thương mại

CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

1.1 Khái niệm đặc điểm tranh tụng

1.1.1 Khái niệm tranh tụng

Về tranh tụng: Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là thành tựu của sự phát triển tư tưởng, của nền văn minh nhân loại. Trong xã hội hiện đại, ở các nước dù có tổ chức hệ thống tư pháp khác nhau, dù là hệ thống luật án lệ, hệ thống luật lục địa hay hệ thống luật xã hội chủ nghĩa, thì ít hay nhiều và bằng các thể hiện khác nhau, trong hệ thống tố tụng đều có yếu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố tụng có hiệu quả bảo đảm cho tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo sự công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng.

Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng, còn tranh luận được hiểu là “bàn cãi tìm ra lẽ phải”, là một nguyên tắc cơ bản được pháp luật tố tụng hành chính ghi nhận tại Điều 18 Luật tố tụng hành chính năm 2015 “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử”. Tương ứng với các loại tố tụng có tranh tụng trong tố tụng hình sự, tranh tụng trong tố tụng dân sự và tranh tụng trong tố tụng hành chính. Tương ứng với các loại phiên tòa có tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm và tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm. Như vậy, tranh tụng trong tố tụng hành chính là một loại tranh tụng trong tố tụng, bao hàm cả hoạt động tranh tụng trước khi mở phiên tòa, tranh tụng tại phiên tòa và tranh tụng sau khi có quyết định giải quyết vụ án hành chính. Vì tố tụng hành chính là quá trình giải quyết vụ án hành chính cho nên tranh tụng trong tố tụng hành chính là tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc.

Theo đó, có thể hiểu tranh tụng trong tố tụng hành chính theo nghĩa sau: là sự đối đáp, đấu tranh giữa các bên đương sự với nhau về chứng cứ, yêu cầu và phản đối yêu cầu của mỗi bên để từ đó nhằm chứng minh cho đối phương và Tòa án rằng yêu cầu và phản đối yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì quá trình tranh tụng này sẽ bao gồm toàn bộ các giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.

1.1.2. Chủ thể tranh tụng trong tố tụng hành chính

Chủ thể tranh tụng trong tố tụng hành chính được hiểu là: Các bên trong vụ án hành chính gồm người khởi kiện và người bị kiện. Tùy từng vụ án cụ thể căn cứ vào nội dung tranh chấp sẽ xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được coi là đương sự thuộc bên khởi kiện hoặc bên bị kiện. Trong một số vụ án cụ thể còn có sự xuất hiện của người làm chứng, vai trò của họ được thể hiện qua lời trình bày được xem là chứng cứ mà họ cung cấp để góp phần xác định sự thật vụ án. Các chủ thể tham gia tố tụng được đưa ra chứng cứ, quan điểm cá nhân, căn cứ pháp lý để chứng minh, lập luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính quy định. Quá trình tranh tụng, Hội đồng xét xử có với vai trò như là người trọng tài phải có thái độ khách quan, vô tư, tôn trọng và lắng nghe ý kiến trình bày của các bên mà không được có biểu hiện thiên vị hoặc định kiến với bất kỳ chủ thể nào; kết hợp với các chứng cứ trong hồ sơ, từ đó đưa ra phán quyết đảm bảo tính khách quan, đúng pháp luật.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Theo quy định tại khoản 2 Điều 61 luật tố tụng hành chính, thì những người sau đây được Tòa án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư; Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý; Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục; không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Tòa án, Kiểm sát và công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an. Vì các bên tham gia tranh tụng trong tố tụng hành chính là những đương sự trong vụ án hành chính, trong rất nhiều trường hợp họ là những người không am hiểu nhiều về pháp luật do vậy chất lượng tranh tụng sẽ tốt hơn khi các bên đương sự có người bảo vệ quyền và lợi ích của mình tham gia tố tụng.

Tòa án là trọng tài và có quyền áp dụng những quy định của pháp luật để phân xử các khiếu kiện giữa các bên đương sự trong vụ án hành chính. Nhiệm vụ của Tòa án tiếp nhận chứng cứ của vụ án do các bên dương sự cung cấp và hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án, điều khiển phiên tòa. Trên cơ sở việc xem xét, đánh giá chứng cứ, Tòa án thể hiện quyết định về từng vấn đề phải giải quyết trong phần Quyết định của bản án và công bố công khai tại phiên tòa.

Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, tham gia phiên tòa sơ thẩm. Viện Kiểm Sát không phải là chủ thể tranh tụng trong tố tụng hành chính mà chỉ là chủ thể thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Khi tham gia các phiên họp, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, Kiểm sát viên chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án, các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác.

1.1.3 Đặc điểm của tranh tụng trong tố tụng hành chính

Việc  tranh tụng không chỉ có trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự mà có cả trong tố tụng hành chính. Tuy nhiên,  mỗi loại tố tụng, tranh tụng được thể hiện ở những mức độ khác nhau, có những đặc điểm riêng biệt. Nếu như trong tố tụng hình sự, chủ thể của tranh tụng là Viện kiểm sát và Luật sư thì trong tố tụng hành chính chủ thể của tranh tụng là các bên trong vụ án gồm người khởi kiện và người bị kiện.  Bản chất của tranh luận trong tố tụng hành chính là sự thể hiện chính kiến của từng bên, dựa trên những chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Như vậy, tranh tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính, còn tranh luận tại phiên tòa chỉ là hình thức tố tụng, mà trong đó Tòa án thay mặt Nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tố tụng để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.

Tranh tụng trong tố tụng hành chính bao gồm những nội dung sau đây:

– Việc tranh tụng được bảo đảm thực hiện từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giải quyết xong vụ án; đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;

Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, đặc biệt là quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:

+ Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong các trường hợp xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ.

+ Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án hành chính; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Đương sự phải thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật tố tụng hành chính, nếu không thực hiện các nghĩa vụ đó thì phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật.

– Điều 55 Luật TTHC sửa đổi, bổ sung năm 2015 quy định: “ Các đương sự của vụ án có quyền:  Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án;. Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án buộc bên đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý; đề nghị Tòa án ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản;. Được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 96..” Qua đó, các đương sự đều có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai). Đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai). Trong quá trình giải quyết, xét xử mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, Tòa án điều hành việc tranh tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử phải bảo đảm các đương sự thực hiện việc tranh tụng, chỉ hỏi những vấn đề mà người tham gia tố tụng trình bày chưa rõ, trong trường hợp cần thiết phải có thời gian thu thập thêm chứng cứ để đủ cơ sở giải quyết vụ án thì tạm ngừng phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.

– Đưa ra ý kiến về đánh giá chứng cứ. Qua việc điều tra chính thức, công khai tại phiên tòa, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng minh. Để thực hiện chức năng tố tụng, nhiệm vụ tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các bên tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về sự thật khách quan của vụ án để giúp cho Tòa án cân nhắc khi ra phán quyết. Các đánh giá khác nhau, phản biện nhau của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho Tòa án khách quan hơn, toàn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để ra phán quyết.

– Đưa ra ý kiến về pháp luật áp dụng. Thực tiễn cho thấy rằng, do nhiều lý do khác nhau như kỹ thuật lập pháp chưa tốt, quy định của pháp luật chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, trình độ nhận thức pháp luật chưa tốt mà pháp luật được nhận thức rất khác nhau trong hoạt động tố tụng. Nội dung của tranh tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa bao gồm việc các bên tham gia tố tụng đề nghị áp dụng luật để bảo vệ quan điểm của mình.

1.2. Nguyên tắc tranh tụng

Về ngữ nghĩa: “Tranh” là tranh luận, bàn cãi, đối đáp qua lại… giữa các bên để khẳng định mình đúng. “Tụng” chỉ trong tố tụng. Theo cách hiểu này thì “Tranh tụng” là tranh cãi tại công đường (Tòa án) theo các nguyên tắc quy định trong luật tố tụng để Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ việc mà đưa ra phán quyết cho chính xác.

Đáp ứng đòi hỏi thực tiễn và thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, Luật TTHC năm 2015 quy định vấn đề này tại Điều 18. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử:

“ 1. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Luật này.

  1. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án hành chính và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Luật này.
  2. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai theo quy định của Luật này. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.”

 Thực hiện nguyên tắc này, trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án đòi hỏi Kiểm sát viên phải nắm vững các điều luật sau: Điều 18, từ Điều 134 đến Điều 140, Điều 175, Điều 236 Luật TTHC năm 2015, bởi các điều luật này quy định các vấn đề nhằm phục vụ cho nguyên tắc tranh tụng, qua đó, để xác định chính xác về chủ thể của tranh tụng, phạm vi tranh tụng, nội dung, phương thức và biểu hiện của việc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Các mặt này thể hiện như sau:

Thứ nhất, về chủ thể tranh tụng chỉ bao gồm đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Viện kiểm sát không phải là một bên tranh tụng, (không tham gia tranh tụng như trong tố tụng hình sự).

Thứ hai, về phạm vi tranh tụng: Tất cả các vấn đề nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Việc tranh tụng bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý vụ án, các bên đương sự có quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ và nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp. Việc tranh tụng kết thúc khi vụ án đã được giải quyết, Tòa án đình chỉ xét xử vụ án hoặc bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Đối với các vụ xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm quyền tranh tụng vẫn được bảo đảm cho đến khi có Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.

Thứ ba, nội dung và phương thức tranh tụng: Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án, về quan hệ tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự. Tranh tụng ngoài phiên tòa thông qua các hoạt động thu thập, giao nộp chứng cứ tài liệu, quyền yêu cầu được tiếp cận tài liệu. Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.

Thứ tư, biểu hiện của tranh tụng: Tranh tụng trong TTHC được Luật TTHC năm 2015, quy định thành nguyên tắc nên thủ tục “đối thoại” đã được quy định là bắt buộc và tuân theo các nguyên tắc được quy định tại Điều 134 Luật TTHC năm 2015 trừ những vụ án trước không đối thoại được theo Điều 135 Luật TTHC năm 2015. Ngoài ra, Tòa án còn phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại các điều: Điều 136, 137, 138, 139 Luật TTHC năm 2015 và xử lý kết quả đối thoại tại Điều 140 Luật TTHC năm 2015.

1.3. Quyền tranh tụng trong tố tụng hành chính

1.3.1 Tranh tụng phát sinh từ thời điểm thụ lý vụ án

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, có trách nhiệm: Lập hồ sơ vụ án; Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác; Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng; Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án; Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Luật tố tụng hành chính; Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Luật tố tụng hành chính, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Điểm mới cơ bản của Luật tố tụng hành chính năm 2015 ở giai đoạn chuẩn bị xét xử là: Thẩm phán có trách nhiệm tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; đây là giai đoạn rất quan trọng trong quá trình xây dựng hồ sơ, Thẩm phán có trách nhiệm xem xét các yêu cầu của những người tham gia tố tụng: Yêu cầu khởi kiện; yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập. Tương ứng với yêu cầu đó Thẩm phán có trách nhiệm yêu cầu người tham gia tố tụng cung cấp toàn bộ các tài liệu mà họ có, những tài liệu họ yêu cầu tòa án thu thập và những tài liệu khác có liên quan, hoặc xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án thì Thẩm phán tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ.

– Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ Thẩm phán chủ trì phiên họp có nhiệm vụ kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia, phổ biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Một trong các quyền cơ bản chủ tọa phải giải thích cho người tham gia tố tụng biết là đương sự phải giao nộp những chứng cứ mà đương sự có hoặc đương sự thu thập được, yêu cầu tòa án thu thập; nếu sau giai đoạn này họ mới xuất trình chứng cứ mà tòa án đã yêu cầu đương sự giao nộp tại phiên họp mà đương sự không chịu giao nộp thì chỉ được xem xét, đánh giá chứng cứ đó trên cơ sở họ phải chứng minh lý do giao nộp chậm.

– Sau khi lập biên bản giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán tổ chức phiên đối thoại để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Trách nhiệm cũng như kỹ năng của Thẩm phán trong quá trình đối thoại là rất quan trọng; Thẩm phán phải tạo niềm tin để người tham gia tố tụng tin tưởng vào Tòa án; tạo điều kiện để những người tham gia tố tụng trình bày tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu chính đáng của mình. Về nguyên tắc đối thoại, Luật TTHC 2015 quy định: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tòa án tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn được quy định tại các Điều 135, 198 và 246 của Luật TTHC năm 2015. Việc đối thoại phải được tiến hành theo các nguyên tắc: Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự; Không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính trái với ý chí của họ; Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Thông qua đó, trách nhiệm của Thẩm phán là người điều hành, là cán cân công lý để tạo điều kiện cho các bên tự nguyện thỏa thuận giải quyết vụ án thông qua con đường đối thoại mà không phải mở p hiên tòa sơ thẩm; tránh trường hợp vụ án khiếu kiện kéo dài, hủy đi hủy lại nhiều lần. Kết thúc phiên đối thoại, Thẩm phán lập biên bản ghi nhận toàn bộ nội dung sự việc; những vấn đề các bên thỏa thuận được và chưa thỏa thuận được; nếu các đương sự thỏa thuận được toàn bộ nội dung vụ án mà nội dung thỏa thuận đó không bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì Thẩm phán lập biên bản đối thoại thành; sau thời hạn 07 ngày nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên đối thoại ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành.

Có thể thấy, khác với tranh tụng tại phiên tòa, tranh tụng từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến trước khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử được thể hiện rõ qua các hoạt động thu thập, giao nộp chứng cứ tài liệu, quyền yêu cầu được tiếp cận tài liệu. Được thực hiện bởi ý chí của các bên trong vụ án, trên tinh thần tự nguyện nhằm chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mình trong vụ án.

1.3.2. Tranh tụng tại phiên tòa

Tranh tụng là hình thức tố tụng trong giải quyết các vụ án. Phạm vi và nội dung tranh tụng có khác nhau trong các hệ thống pháp luật và các loại án. Thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa và Tòa án ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa là đảm bảo quan trọng cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định. Nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa thể hiện:

– Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án hành chính, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án;

– Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa; Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến nhưng có quyền yêu cầu họ dừng trình bày những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Bắt đầu vào thủ tục tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử lần lượt nghe lời trình bày của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện trình bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Người khởi kiện có quyền bổ sung ý kiến; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày ý kiến của người bị kiện đối với yêu cầu của người khởi kiện; yêu cầu phản tố, đề nghị của người bị kiện và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người bị kiện có quyền bổ sung ý kiến; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của người khởi kiện, người bị kiện; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.

–  Phần hỏi tại phiên tòa, khoản 19 Điều 55 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 còn quy định thêm việc đương sự có quyền “đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề có liên quan đến vụ án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng”.  Một quy định nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hành chính được thể hiện tại Điều 177 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về thứ tự hỏi là sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa, thứ tự hỏi của từng người được thực hiện như sau:

+ Người khởi kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện  hỏi trước, tiếp đến người bị kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Việc đặt câu hỏi phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lắp, không lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của những người tham gia tố tụng.

+ Người tham gia tố tụng khác;

+ Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân;

+ Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

– Trong quá trình hỏi, Hội đồng xét xử mà đặc biệt vai trò của Thẩm phán chủ tọa là người chủ trì, điều khiển đảm bảo phiên tòa diễn ra một cách trật tự. Hội đồng xét xử phải khách quan tập trung lắng nghe lời trình bày của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác.

+ Trường hợp xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của những người tham gia tố tụng chủ tọa công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án; Nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh; Xem xét vật chứng có liên quan đến vụ án để đánh giá một cách toàn diện hồ sơ vụ án.

+ Chủ tọa phiên tòa công bố bản kết luận giám định, nếu người giám định vắng mặt hoặc mời người giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề được giao giám định. Người giám định có quyền giải thích bổ sung trên cơ sở kết luận giám định tại phiên tòa.

– Sau khi kết thúc việc hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ kiện hành chính, thông qua phần tranh luận giúp Hội đồng xét xử có những đánh giá, nhận định đầy đủ khách quan về nội dung vụ án, để làm căn cứ khi nghị án và ra bản án hoặc quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Trình tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện theo quy định của Luật TTHC năm 2015, dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Chủ tọa phiên tòa là người điều khiển việc tranh luận, để việc tranh luận có chất lượng thì chủ tọa phải xác định những vấn đề mà các bên cần tranh luận với nhau, hướng việc tranh luận vào trọng tâm, vào những điều cần phải làm rõ để xác định sự thật, xác định được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Nếu qua tranh luận thấy việc thu thập tài liệu, đánh giá chứng cứ vụ án chưa toàn diện hoặc vì lý do sức khỏe, trở ngại khách quan của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thì chủ tọa có thể tạm ngừng phiên tòa để bổ sung, nếu cần thấy phải xem xét thêm vật chứng, xét hỏi thêm thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại phần thủ tục hỏi và sau đó lại tiếp tục tranh luận bổ sung.

Việc quy định Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính đã xác định rõ và đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia tranh tụng. Quy định này thực sự đảm bảo cho đương sự quyền và nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động xét xử nhằm xây dựng nền tư pháp vững mạnh, trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, cá nhân, tổ chức.

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG, VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ  TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

2.1.  Những điểm mới, tiến bộ về tranh tụng trong TTHC năm 2015 so với Luật TTHC năm 2010

Luật TTHC năm 2010 được đánh giá là một trong những đạo luật quan trọng góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn để Tòa án nhân dân giải quyết các khiếu kiện hành chính có hiệu quả, góp phần bảo vệ tốt hơn các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Tuy nhiên, về bảo đảm tranh tụng chưa được cụ thể hóa trong Luật TTHC năm 2010 nên nội hàm của “tranh tụng” chưa được làm rõ; quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tranh tụng còn chưa đầy đủ; phạm vi tranh tụng, trách nhiệm của Tòa án, Thẩm phán và Hội thẩm trong việc bảo đảm quyền tranh tụng không được quy định cụ thể.

Luật TTHC năm 2010 cũng không quy định về nguyên tắc tranh tụng mà mới chỉ tiếp cận khái niệm tranh luận qua điều luật về trình tự phát biểu khi tranh luận, Điều 158 Bộ luật TTDS 2010. Từ đó, dẫn đến các nội dung của nguyên tắc tranh tụng không rõ ràng, quyền được biết và trình bày ý kiến về yêu cầu, chứng cứ của người khác chưa được đảm bảo; nghĩa vụ của Tòa án chưa được quy định phù hợp trong việc bảo đảm việc thực hiện quyền tranh tụng của đương sự bình đẳng, công khai, đúng pháp luật.

Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016 đã thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng trong Nghị quyết số 49-NQ/TW về hoạt động tố tụng và cải cách tư pháp đó là: “Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, vai trò, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công bằng, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” nhằm xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Xác định tầm quan trọng của tranh tụng tại phiên tòa, Luật TTHC năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, trong đó cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” và Điều 13 Luật Tổ chức TAND năm 2014 “… Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử…”.

Theo đó, Điều 18 Luật TTHC năm 2015 về “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” quy định Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án hành chính và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.

So với Luật TTHC năm 2010, Luật TTHC năm 2015 đã quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng là bắt buộc đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử. Tranh tụng trong TTHC là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong TTHC thì chủ thể của tranh tụng là các bên trong vụ án – là người khởi kiện và người bị kiện. Các chủ thể tham gia tố tụng được đưa ra chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật TTHC quy định. Quá trình tranh tụng, Hội đồng xét xử có vai trò là trọng tài, là người cầm cân nảy mực nghe tranh luận của các bên, đây là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết đảm bảo tính khách quan, đúng pháp luật.

Việc bổ sung các quy định trên đã xác định rõ và đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia tranh tụng, đảm bảo cho đương sự quyền và nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Hiện nay, tại hầu hết các Tòa án, quá trình tố tụng vẫn diễn ra theo lối mòn đó là xét hỏi. Những quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đã làm hạn chế vai trò của đương sự, thể hiện ở trình tự phiên tòa là xét hỏi trước rồi mới đến tranh luận, số lượng các điều luật quy định vấn đề xét hỏi nhiều hơn hẳn so với các quy định về vấn đề tranh luận. Thủ tục hỏi bắt đầu từ phía Hội đồng xét xử, khi các bên muốn hỏi nhau phải được sự đồng ý của Hội đồng xét xử. Không ít phiên tòa, Hội đồng xét xử hạn chế thời gian tranh luận của các bên đương sự… Chính vì vậy, công tác xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 chưa đáp ứng được sự mong đợi của người dân và xã hội, ảnh hưởng đến việc bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng như ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân.

Như vậy, việc quy định Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Luật TTHC năm 2015 đã xác định rõ và đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia tranh tụng. Quy định này thực sự đảm bảo cho đương sự quyền và nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động xét xử nhằm xây dựng nền tư pháp vững mạnh, trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

2.2. Thực trạng của việc tranh tụng

Thực tiễn áp dụng pháp luật thời gian qua cho thấy, khi chưa có quy định cụ thể trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015, khái niệm “tranh tụng” mới chỉ được hiểu là việc tranh luận tại phiên tòa và chỉ thể hiện trong những vụ án có Luật sư tham gia hoặc trong những vụ án mà đương sự có trình độ hiểu biết pháp luật nhất định, hoặc bên bị kiện cử người có đủ thẩm quyền, nắm rõ sự việc liên quan đến khiếu kiện tham gia phiên tòa. Những vụ án mà người khởi kiện có điều kiện kinh tế khó khăn, không thuê Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình hoặc những vụ án mà bên bị kiện ủy quyền cho người không phải là người quản lý, điều hành lĩnh vực liên quan đến khiếu kiện thì việc tranh tụng tại phiên tòa chưa bảo đảm.

Mục đích, ý nghĩa của phần tranh luận tại phiên tòa là nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ kiện hành chính, nhất là các tình tiết mà những người tham gia tranh luận còn có ý kiến khác nhau. Đồng thời, thông qua phần tranh luận để giúp Hội đồng xét xử sẽ có những đánh giá, nhận định đầy đủ khách quan về nội dung vụ án, để làm căn cứ khi nghị án và ra bản án hoặc quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục.

Tuy nhiên, Về vị trí xã hội thì người tham gia tố tụng cũng khác nhau, trong đó người khởi kiện “yếu thế” hơn so với người bị kiện, vì người bị kiện là người có thẩm quyền ra các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Còn người khởi kiện là người phục tùng, chấp hành quyết định hoặc hành vi hành chính. Đây cũng là nội dung khác biệt so với tố tụng dân sự, vì nguyên đơn và bị đơn khi tham gia quan hệ dân sự là bình đẳng, tự nguyện. Xuất phát từ sự khác biệt nêu trên, nên trong thực tiễn xét xử các vụ án hành chính, phần tranh luận thường đưa ra rất ngắn, trong trường hợp có luật sư tham gia thì chủ yếu là phát biểu của luật sư, nên chất lượng của phần tranh luận rất hạn chế, không đạt được ý nghĩa làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, dẫn đến việc chưa đảm bảo yêu cầu về chất lượng xét xử.

Sau khi Luật TTHC 2015 ra đời, tại Điều 18, Luật TTHC năm 2015 về “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử”, cũng góp phần khắc phục được một số khiếm khuyết của Luật TTHC 2010, tuy nhiên khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn tồn tại những thực trạng sau:

Trong quá trình tham gia xét xử, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa để bảo vệ quyền lợi của mình. Người khởi kiện có nghĩa vụ chứng minh, tức là phải cung cấp chứng cứ để thuyết phục Tòa chấp nhận yêu cầu của mình. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp người khởi kiện có đủ điều kiện để thu thập và xuất trình chứng cứ cho Tòa. Khi ấy, Tòa có thể yêu cầu các đương sự có các chứng cứ phải xuất trình trước Tòa để việc giải quyết vụ án được thuận lợi, khách quan. Trong tố tụng hành chính, Cơ quan nhà nước có điều kiện thu thập, bổ sung chứng cứ để bảo vệ quyết định, hành vi hành chính của mình, cơ quan nhà nước có nhiều lợi thế khi tranh tụng. Ngược lại, người khởi kiện đa phần là người dân chỉ có thể sử dụng chứng cứ từ những nguồn thông tin công khai hoặc do chính các cơ quan nhà nước cung cấp. Để tạo sự bình đẳng Điều 55 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “ Các đương sự của vụ án có quyền:  Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án buộc bên đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý; đề nghị Tòa án ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản;. Được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 96…”

Tại phiên tòa, trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ do các bên xuất trình, Tòa sẽ phải chủ động, tích cực thẩm vấn để làm rõ sự thật khách quan. Có quan điểm cho rằng, đây là điểm tích cực trong tố tụng tư pháp. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng nó có thể tạo ra sự thiếu khách quan, vô tư của Tòa. Mặt khác, nó cũng sẽ tạo cảm giác rằng trách nhiệm chứng minh thuộc về Tòa án chứ không thuộc các đương sự.

Nếu như trong tố tụng hình sự, chủ thể của tranh tụng là Viện kiểm sát và Luật sư thì trong tố tụng hành chính, chủ thể của tranh tụng là các bên trong vụ án gồm người khởi kiện và người bị kiện. Điểm chung của các loại tố tụng nói trên là vai trò trọng tài của Hội đồng xét xử. Trong quá trình tranh tụng, Hội đồng xét xử cầm cân nảy mực, phân định để đưa ra phán xét cuối cùng sau khi đã nghe tranh luận của các bên. Sự công tâm của Hội đồng xét xử phụ thuộc vào Thẩm phán và Hội thẩm. Thẩm phán và Hội thẩm phải là những người có trình độ, năng lực nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, thường xuyên được bồi dưỡng về pháp luật và kỹ năng nghiệp vụ mới đảm bảo tốt công tác xét xử và điều khiển tranh tụng.

Trong tố tụng hành chính, tranh tụng được thể hiện rõ nét trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, đặc biệt là trong thủ tục tranh luận và đối đáp. Theo khoản 2, Điều 152 Luật tố tụng hành chính sửa đổi bổ sung năm 2015 quy định: “ 2. Hội đồng xét xử phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án tại phiên tòa bằng cách hỏi và nghe trình bày, tranh luận trực tiếp về tình tiết, chứng cứ của vụ án của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên tòa, nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát”

Cũng tại Điều 175 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “ Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án. Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt ý kiến không liên quan đến vụ án.”.

Như vậy, Hội đồng xét xử sẽ giữ vai trò điều khiển trong quá trình xét hỏi, tranh luận và đối đáp công khai tại phiên tòa, các bên đều có nghĩa vụ chứng minh, đưa ra tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Mặc dù, Luật TTHC năm 2015 đã tạo điều kiện để các bên tranh tụng tại phiên toà, không hạn chế thời gian tranh tụng, cho phép các đương sự có quyền đặt ra câu hỏi hỏi và tranh luận với nhau nhằm tạo tiền đề cho việc tranh tụng đạt hiệu quả. Tuy nhiên, bản thân tác giả vẫn nhận thấy rằng việc tranh tụng chỉ đạt được hiểu quả khi bên khởi kiện có yêu cầu Luật sư bào chữa hoặc bên khởi kiện là chủ thể có am hiểu kiến thức về pháp luật, do đó thực tế tại các phiên tòa hành chính hiện nay quy định về trannh tụng trong Luật TTHC năm 2015 vẫn chưa phát huy được những đổi mới tích cực của điều luật về tranh tụng.

2.2. Những hạn chế, bất cập

Thông qua những nội dung đã được đề cập về lý luận và thực trạng đối với quy định về tranh tụng của Luật tố tụng hành chính hiện hành, cho thấy đối với vấn đề tranh tụng cả về lý luận và thực trạng đều thể hiện một số điểm hạn chế bất cập sau đây:

Thứ nhất, Luật TTHC năm 2015 tại Điều 10 có ghi nhận “cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi là Viện kiểm sát) theo quy định của Luật này khi có yêu cầu và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết”. Quy định trên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tranh tụng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, tuy nhiên thực tế áp dụng còn nhiều bất cập, vì việc thu thập chứng cứ còn phụ thuộc nhiều vào thiện chí của cơ quan tổ chức đang lưu giữ tài liệu chứng cứ, bởi Luật TTHC năm 2015 chưa có cơ chế, chế tài hữu hiệu để thực hiện quyền của đương sự cũng như của Tòa án, Viện kiểm sát.

Thứ hai, theo quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật tố tụng Hành chính năm 2015, “trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải thông báo cho đương sự khác biết về việc họ đã giao nộp tài liệu, chứng cứ”. Tuy nhiên, do không quy định chế tài đối với việc không thực hiện nghĩa vụ thông báo, nên trong trường hợp đương sự không thông báo cho đương sự khác biết, Tòa án phải giải thích, hướng dẫn cho đương sự là họ có nghĩa vụ thông báo cho các đương sự và yêu cầu đương sự thực hiện nghĩa vụ đó để đương sự khác liên hệ với Tòa án thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ. Trường hợp có tài liệu, chứng cứ vẫn chưa dược thông báo cho đương sự thì Tòa án là chủ thể thực hiện việc thông báo cho bên kia biết để họ thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ đó.

Thứ ba, số vụ án hành chính có sự tham gia của Luật sư với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chiếm tỷ lệ không cao nên chất lượng tranh tụng không cao. Hầu như rất ít trường hợp có người tham gia tố tụng tham dự phiên tòa giám đốc thẩm, phiên tòa tái thẩm xét xử vụ án hành chính. Nhiều trường hợp, đương sự chỉ phát biểu tranh luận “đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật”. Nguyên nhân của tình trạng này là số lượng Luật sư của nước ta còn ít lại tập trung chủ yếu ở các đô thị;  phí dịch vụ thuê luật sư quá cao, Nhà nước chưa có cơ chế hữu hiệu kiểm soát sự không tương xứng giữa giá trị và chất lượng dịch vụ, giá cả dịch vụ pháp lý của Luật sư.

Thứ tư, với trình tự xét hỏi như quy định của Luật tố tụng hành chính  hiện hành, thì quyền chủ động xét hỏi thuộc về Tòa án. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa để kiểm sát sự tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng nhưng vẫn có quyền xét hỏi (Luật tố tụng hành chính chỉ quy định trường hợp Kiểm sát viên hỏi đương sự khi tham gia phiên tòa nhưng không quy định là không được hỏi về nội dung vụ kiện). Do vậy, không loại trừ trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm và Kiểm sát viên đặt những câu hỏi nhằm tìm câu trả lời của đương sự phục vụ cho việc giải quyết vụ án theo sự thiên vị của mình.

Những quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa cho thấy sau khi xét hỏi, nội dung vụ án đã được làm sáng tỏ. Ví dụ Điều 176 quy định về nghe lời trình bày của đương sự theo trình tự các bên trình bày yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Đồng thời, quá trình hỏi sẽ kết hợp với việc công bố các tài liệu của vụ án; nghe băng, đĩa ghi hình; xem xét vật chứng; hỏi người giám định. Bằng quy định này, qua trình bày của đương sự trong phần xét hỏi, nội dung vụ án không những đã đầy đủ, rõ ràng, sáng tỏ mà các bên đương sự cũng đã có dịp đối đáp với những nội dung trình bày của nhau. Như vậy, với quy định của Luật tố tụng hành chính, thì qua phần xét hỏi, nội dung vụ án đã đầy đủ nên phần tranh luận không còn nội dung và chỉ là sự lặp lại những nội dung đã trình bày ở phần xét hỏi. Mặt khác, như đã trình bày, việc tranh luận tại phiên tòa cũng chỉ được tiến hành sau khi xét hỏi. Có những vụ án hành chính, việc xét hỏi được thực hiện trong một thời gian dài (một buổi, một hoặc vài ngày) đến nỗi khi đến thời điểm tranh luận thì đương sự lại quên mất những nội dung và kết quả xét hỏi từng vấn đề vì họ không phải là những người am hiểu về luật.

2.3. Đề xuất, kiến nghị:

Nhằm góp phần hoàn thiện hơn về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính, tác giả xin đưa ra một số giải pháp kiến nghị như sau:

Tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và xét xử hành chính nói riêng. Để đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ tại phiên tòa xét xử vụ án hành chính nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng, cần thiết phải có một hệ thống pháp luâtj bảo đảm về mặt pháp lý cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện.

Thứ nhất, cần xác định rõ hơn quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử thực hiện vai trò điều khiển tranh tụng trong phiên tòa hành chính. Hội đồng xét xử là người điều khiển quá trình tranh tụng chứ không phải là người tham gia tranh tụng. Vì thế cần bỏ những quy định không cần thiết gây ảnh hưởng đến vai trò điều khiển của HĐXX. Hội đồng xét xử phải căn cứ vào kết quả tranh tụng của các bên, căn cứ vào kết quả xét xử công khai để ra phán quyết giải quyết vụ án. Xác định rõ hơn quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử thực hiện vai trò điều khiển tranh tụng trong phiên tòa hành chính, để bảo đảm chất lượng tranh tụng, chủ tọa phiên tòa phải là người xác định những nội dung cần tranh tụng (căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đề xuất của các bên đương sự); chủ tọa phiên tòa là người điều hành việc tranh tụng và bảo đảm rằng, các bên đương sự phải nêu quan điểm, lập luận của mình trong từng vấn đề đã được xác định. Mặc dù Thẩm phán không phải là một bên tranh tụng nhưng với vai trò thực thi công lý, Thẩm phán phải có kỹ năng điều hành, hướng dẫn các bên thực hiện việc tranh tụng đi vào trọng tâm, hiệu quả. Muốn vậy, Thẩm phán phải là người có kiến thức chuyên sâu, thành thục kỹ năng và nghiệp vụ xét xử, tranh tụng và có đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới, cần có các biện pháp để xây dựng, nâng cao năng lực chuyên môn, tập huấn, bồi dưỡng các kỹ năng xét xử cho đội ngũ Thẩm phán đáp ứng yêu cầu tranh tụng trong xét xử hành chính, đồng thời, chú trọng việc tuyển chọn, đào tạo đội ngũ Hội thẩm nhân dân đáp ứng các yêu cầu tranh tụng trong tố tụng hành chính.

Thứ hai, phải xác định rõ và đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của bên khởi kiện và bên bị kiện, đảm bảo cho họ quyền và nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa. Nâng cao vai trò của các bên trong việc xét hỏi, tranh luận và đối đáp trước Tòa. Các bên phải tích cực trong tranh tụng và đó là cơ sở để Tòa ra phán quyết giải quyết vụ án. Quy định thủ tục tố tụng bình đẳng, đảm bảo để các bên tham gia tố tụng được xét hỏi, tranh luận một cách khách quan, công bằng và bình đẳng, phát huy vai trò của các bên trong việc hỏi, tranh luận và đối đáp trước Tòa. Các bên phải tích cực trong tranh tụng và đó là cơ sở để Tòa ra phán quyết giải quyết vụ án. Mở rộng phạm vi các vụ án có sự tham gia bắt buộc của luật sư. Cần nâng cao vai trò của luật sư trong tố tụng hành chính. Luật sư tham gia tố tụng hành chính để  bảo vệ quyền lợi của người bị kiện hoặc người kiện. Đồng thời các cơ quan nhà nước cần sử dụng Luật sư một cách thường xuyên chứ không chỉ khi nào có khiếu kiện thì mới cần Luật sư tham vấn.

Thứ ba, quy định quyền, nghĩa vụ, thủ tục cung cấp chứng cứ, chứng minh; coi trách nhiệm thu thập chứng cứ của đương sự là nội dung trọng tâm. Một vấn đề khác, để tranh tụng thực sự dân chủ, công bằng, khách quan, thì các tài liệu, chứng cứ trong vụ án phải được minh bạch, công khai, các bên đương sự đều có quyền và điều kiện tiếp cận như nhau. Có quan điểm cho rằng, phải quy định thời hạn chót của việc cung cấp chứng cứ. Tuy nhiên không nên khống chế thời hạn chót của việc đương sự cung cấp chứng cứ. Bởi lẽ, trong thực tế tuy có trường hợp đương sự giấu chứng cứ và chỉ đưa ra tại phiên tòa nhưng không phải đương sự nào cũng thu thập được chứng cứ và nộp cho Tòa án trước ngày mở phiên tòa. Có những chứng cứ nằm ở các cơ quan, tổ chức mà đương sự biết nhưng không thể tiếp cận được cho nên pháp luật mới quy định đương sự có quyền “Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá”. Mặt khác, với chức năng nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý thì khi giải quyết, xét xử vụ án hành chính, Tòa án phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy, phải tăng cường công tác giải quyết kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính đồng thời có cơ chế hữu hiệu để hạn chế việc khiếu nại “cầu may”. Cần phải có các quy định đầy đủ, hợp lý và khả thi về địa vị tố tụng của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa để họ có điều kiện, khả năng thực hiện các nội dung tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình, như được chủ động thu thập vật chứng, được xét hỏi những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng trong giai đoạn điều tra, được yêu cầu cung cấp tài liệu

Thứ tư, cần nâng cao vai trò và vị trí của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vụ án hành chính nhưng  không phải là chủ thể tranh tụng. Sau khi những người tham gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. ( Điều 190 luật TTHC sửa đổi, bổ sung năm 2015). Kiểm sát viên trong quá trình hỏi cần hướng cho các đương sự tranh tụng, đưa ra các chứng cứ hợp pháp bảo vệ quyền lợi cho mình, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX trong việc điều khiển quá trình tranh tụng.

Thứ năm, cần đẩy mạnh việc giáo dục, tuyên truyền về Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và các văn bản pháp luật, đặc biệt là quyền được tranh tụng một cách cụ thể và sâu rộng để người dân hiểu biết về pháp luật tố tụng hành chính, giúp cho họ có sự chuẩn bị cần thiết các điều kiện, tiền đề khi tham gia vào tố tụng nhằm có thể thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời, giúp cho xã hội có sự hiểu biết pháp luật để có thể giám sát, đánh giá khách quan về hoạt động tranh tụng trong xét xử hành chính. Nâng cao trình độ, nhận thức người tham gia tố tụng, đảm bảo cho họ có đủ kiến thức, năng lực, khả năng diễn đạt để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa. Những trường hợp người tham gia tranh tụng không có khả năng đó thì nhất thiết phải được sự trợ giúp của luật sư.

Thứ sáu, hình thành các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp với chức năng hợp lý phù hợp với cơ chế tranh tụng. Đặc biệt, để việc tranh tụng có hiệu quả cần nâng cao vai trò của luật sư và trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động tranh tụng được ghi nhận tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên  tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Trong xét xử các khiếu kiện hành chính, đương sự là người khởi kiện, một số trường hợp trình độ còn hạn chế, trong khi đó, người bị kiện là những người nắm và hiểu rõ các quy định pháp luật, có trình độ nên cần có sự tham gia của luật sư, trợ giúp viên pháp lý nhằm hỗ trợ bên khởi kiện là bên yếu thế hơn. Muốn vậy, cần tăng cường các tổ chức luật sư, mở rộng phạm vi bào chữa để đảm bảo các phiên tòa có sự tham gia của người bào chữa ngày càng nhiều.

KẾT LUẬN

Quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính” cho phép tác giả rút ra một số kết luận sau đây:

Thứ nhất, khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính trong đề tài tiểu luận góp phần làm sáng tỏ bản chất, phạm vi và nội dung thủ tục tranh tụng trong tố tụng hành chính và phân biệt sự khác nhau giữa hai khái niệm tranh tụng và tranh luận.

Thứ hai, hoạt động của Hội đồng xét xử và các bên trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành với sự tuân thủ các nguyên tắc, trình tự và thủ tục được Luật TTHC năm 2015 quy định chặt chẽ nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên tham gia tranh tụng.

Thứ ba, tiểu luận đã đi sâu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Với tư cách là trọng tài, Hội đồng xét xử phải bảo đảm sự bình đẳng của các bên và hướng cho hoạt động của thủ tục tranh tụng của các bên tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.

Thứ tư, tiểu luận đã phân tích một số yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng  tranh tụng trong thủ tục (các quy định của pháp luật, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của các chủ thể (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Người bào chữa) trong thủ tục tranh tụng và các yếu tố khác: đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm của họ…)

Thứ năm, mặc dù các quy định trong Bộ luật tố tụng hành chính năm 2015 đã có nhiều tiến bộ hơn, tuy nhiên khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn nhiều vướng mắt.

Trên cơ sở phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong thủ tục tranh tụng tại trong tố tụng hành chính, tác giả đã đề xuất một số giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng của nguyên tắc tranh tụng trong tố  tụng hành chính.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội – năm 2014;
  2. Luật tố tụng hành chính năm 2010;
  3. Luật tố tụng hành chính năm 2015;
  4. So sánh – đối chiếu và chỉ dẫn áp dụng Luật Tố tụng hành năm 2010 – 2015, Nxb Hồng Đức, Hà Nội – năm 2016.
  5. Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, năm 2015;
  6. Nghị quyết số: 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị;
  7. Kết luận số: 79-KL/TW ngày 28/7/2010; Kết luận số: 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị;
  8. Tạp chí khoa học pháp lý số: 04/2004, chuyên đề “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” của đồng chí: Trần Văn Độ – Tòa án quân sự Trung ương.
  9. Bình luận khoa học Luật tố tụng hành chính năm 2015, Nxb Hồng Đức, Hà Nội – năm 2015.
5/5 - (9 bình chọn)

22 Bình luận

  1. Avatar for TRẦN QUỲNH
    TRẦN QUỲNH

    có thể cho em xin file tài liêu được không ạ???

  2. Avatar for minh

    Cho em xin file bài với ạ

  3. Avatar for Phương Tuyền
    Phương Tuyền

    cho em xin file này với ạ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *