Thứ Sáu , Tháng Sáu 9 2023

Tiểu luận: Vấn đề con người trong triết học Mác

TÊN ĐỀ TÀI: “Vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin và nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa“.

Định dạng: Full Word 2016. Độ dài: 30 trang A4.

Xem thêm:

Yếu tố con người trong triết học Mác
Yếu tố con người trong triết học Mác

PHẦN MỞ ĐẦU

1. L‎ý do chọn đề tài

Như chúng ta đã biết, Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là mục tiêu được Đảng, Nhà nước ta đặt ra từ khi bắt đầu đường lối đổi mới đất nước. Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng, Nhà nước ta đã xác định chính con người với sức lực và trí tuệ của mình là nhân tố quyết định hiệu quả của việc khai thác nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác; con người là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, nhất là hiện nay Nhà nước ta đang chú trọng tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Vấn đề con người trong triết học Mác-Lê nin đã được nghiên cứu và trình bày một cách bao quát, đặc sắc, mang tính khoa học. Chủ nghĩa Mác – Lê nin đã kết luận con người không những là một chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, có vai trò quyết định trong sự phát triển của hoạt động sản xuất, vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà con người còn là chủ thể của quá trình lịch sử của sự tiến bộ xã hội, đặc biệt khi xã hội loài người càng phát triển và đạt đến trình độ văn minh cao như hiện nay.

Vì vậy tôi chọn tiểu luận: “ Vấn đề con người trong triết học Mac – Lê Nin và nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” để làm báo cáo kết thúc môn học của mình. Việc nghiên cứu vấn đề con người trong triết học Mác – Lê Nin góp phần làm rõ những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về con người, khẳng định tầm quan trọng của nhân tố con người đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói và sự phát triển xã hội; đồng thời làm rõ thêm:

– Tìm hiểu rõ hơn quan điểm triết học Mac – Lê Nin về vấn đề con người.

– Tìm hiểu rõ quan điểm của đảng ta về nhân tố con người.

– Vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

– Những nhiệm vụ cơ bản xây dựng con người trong thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

2. Cơ sở nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề con người và tầm quan trọng của nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tham khảo có chọn lọc tài liệu nghiên cứu từ nhiều nguồn.

Nghiên cứu l‎ý luận về vấn đề con người trong triết học Mac – Lê Nin.

Nghiên cứu quan điểm của Đảng ta về nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Vận dụng lý‎ luận về con người trong triết học Mac-Lê Nin để xây dựng và phát triển con người Việt nam hiện nay.

3. Phương pháp nghiên cứu

Trong nghiên cứu tiểu luận triết học, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

– Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: phương pháp này được trong thực hiện nghiên cứu và tổng hợp tài liệu thông qua các nguồn tài liệu như sách, báo có liên quan, các bài báo, bài viết trên tạp chí mạng Internet. Từ các nguồn tài liệu này tôi đã trích dẫn và tổng hợp thành một bài hoàn chỉnh.

– Phương pháp luận vấn đề: việc nghiên cứu chung nhất các quan điểm của triết học Mac – Lê Nin về vấn đề con người và xem xét những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta, tôi phân tích đến vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

– Phương pháp tư duy biện chứng: trên cơ sở tìm hiểu những quan điểm triết học Mac – Lê Nin về vấn đề con người, tôi đã vận dụng và quán triệt các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép duy vật biện chứng để tìm hiểu vai trò của nhân tố con người trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện hóa đất nước ở nước ta, từ đó vận dụng quan điểm triết học Mac-Le Nin đưa ra nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phù hợp với giai đoạn hiện nay.

4. Kết cấu đề tài

Phần mở đầu, nội dung đề tài gồm 02 chương và phần kết luận

Chương 1: Cơ sở l‎ý luận của Chủ nghĩa Mac – Lê Nin về vấn đề con người

1.‎ ‎Quan điểm của các nhà triết học trước Mac về con người

2. Quan điểm của triết học Mac – Lê Nin về bản chất con người

2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội

2.2. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội

2.2.1. Con người là chủ thể của lịch sử

2.2.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội

3. Bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội

4. Chủ nghĩa xã hội là sự phát triển toàn diện của con người

Chương 2: Nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta

 1. Khái niệm nhân tố con người và công nghiệp hóa, hiện đại hóa

1.1. Khái niệm nhân tố con người

1.2. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa

2. Quan điểm của Đảng ta vnhân tcon người và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

2.1. Quan điểm của Đảng ta về nhân tố con người

2.2. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

3. Nhân tố con người trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

3.1. Những điều kiện khách quan ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam

3.2. Con người là mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

4. Vai trò của nhân tố con người quá tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

4.1. Nội dung quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

4.2. Vai trò của nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

5. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Phần Kết luận.

Giao dịch

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ CON NGƯỜI

1. Quan điểm của các nhà Triết học trước Mac về con người

 Trong lịch sử triết học, con người là chủ thể trung tâm được các triết gia triết học phương đông và phương tây quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên các trường phái khác nhau có quan điểm lý giải khác nhau về nguồn gốc, bản chất và vai trò con người đối với đời sống xã hội. Có thể chú ý đến những quan điểm sau:

Quan điểm triết học trước Mác, con người là một thực thể tự nhiên, thực thể xã hội. Song họ không vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Các nhà triết học cổ đại xem con người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn loài. Chỉ đứng sau thần linh. Nội dung này được thể hiện rõ trong tư tưởng triết học phật giáo, nho giáo, Lão giáo, quan niệm về bản chất con người cũng thể hiện một cách phong phú. Khổng Tử quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do bị ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán xấu mà bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới giá trị đạo đức tốt đẹp. Tuân Tử cho rằng bản chất con người khi mới sinh ra là ác nhưng có thể được cải biến được, qua một quá trình chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được. Lão Tử cho rằng con người sinh ra từ “ Đạo”. Do vậy con người con người phải sống theo lẻ tự nhiên thuần phát, không hành động một cách giả tạo, gò ép trái với quy luật tự nhiên.

Triết học phương Tây, đặc biệt là KiTô giáo họ nhận thức con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm và thần bí; Triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu cũng đã có sự phân biệt con người với tự nhiên, nhưng cũng chỉ hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người; Triết học thời kỳ phục hưng cận đại đề cao vai trò trí tuệ, l‎ý tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ.

Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng cho rằng, con người được chia làm hai phần, trong đó phần hồn là do thượng đế sinh ra, quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật lịch sử thì ngược lại, họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả.

Các nhà triết học cổ điển Đức như: Cartơ, Heghen… đã phát triển quan điểm triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần, ông phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân.

Trái với Heghen, Phơbách đã phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác, ông quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh vật trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh. Ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người nhưng khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì Phơbách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.

Tóm lại, các quan niệm triết học trước Mác xem xét con người một cách trừu tượng, chưa được nhận thức đầy đủ cả về bản chất, về mặt sinh vật và xã hội. Con người chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem nhẹ về mặt xã hội. Họ đã quy đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò thực tiễn. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn hay tuyệt đối hoá phần xác, phần sinh vật. Tuy các quan điểm nói trên còn nhiều hạn chế, nhưng đã đặt nền móng có ý nghĩa quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học Mác sau này.

2. Quan điểm của Triết học Mác-Lênin về bản chất con người

2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội

Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con người là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật với yếu tố xã hội, là thực thể sinh vật và xã hội.

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên, con người tự nhiên mang tất cả bản tính sinh vật, tính loài. Vì vậy, con người cho dù phát triển đến đâu cũng là một động vật. Ph.Ăngghen khẳng định: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”.

Tuy Nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất của con người, con người tuy là một bộ phận của tự nhiên, nhưng con người khác với động vật vì con người còn là một thực thể xã hội. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, thông qua các hoạt động sản xuất vật chất phục vụ nhu cầu cuộc sống của con người, đã giúp con người phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập nên mối quan hệ xã hội. Do đó, lao động chính là yếu tố quyết định bản chất xã hội của con người, đồng thời giúp con người ngày càng hoàn thiện bản thân.

Theo Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người. Con người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biểu hiện của xã hội; con người không phải là một động vật thuần tuý mà là một “động vật xã hội” , con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Thực thể sinh vật và thực thể xã hội ở con người không tách khỏi nhau, trong đó thực thể sinh vật là tiền đề để thực thể xã hội tồn tại và phát triển.

2.2. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội

2.2.1. Con người là chủ thể của lịch sử

Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư cách là sản phẩm quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, mà con người còn là chủ thể của lịch sử. C.Mac đã khẳng định “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoản cảnh và giáo dục… Cái học thuyết ấy quên rằng chính con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải giáo dục”. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph. Angghen cũng cho rằng “thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trang thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do muốn của chúng. Ngược lại con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người đã làm ra lịch sử của mình, con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân mình. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện tồn tại của con người, vừa là phương thức để biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.

Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Trong quá trình phát triển của thế giới nói chung và quá trình phát triển của con người nói riêng, thì từ khi con người ra đời cho đến lúc con người không còn tồn tại thì con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.

2.2.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội

Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn có hoài bảo được sống tự do, hạnh phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bảo đó trở thành hiện thực, điều này được thể hiện rỏ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản. Giai cấp thống trị luôn dùng mọi thủ đoạn để tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do và hạnh phúc của số đông quần chúng lao động. Chính vì vậy, con người không ngừng đấu tranh chống lại sự áp bức bất công đó.

Sự phát triển xã hội ngày càng văn minh, đó là xu hướng chủ yếu của xã hội, nhưng đến nay sự phát triển văn minh đó chứa đựng những yếu tố, những khuynh hướng đi ngược lại lợi ích chung của con người, nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật phát triển được sử dụng để hủy diệt con người. Công nghiệp hóa học phát triển tạo ra năng suất, chất lượng lao động cao, nhưng cũng là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường, máy móc thay sức người nhưng cũng là nguyên nhân làm cho hàng chục triệu người thất nghiệp. Xu thế hội nhập mở cửa tạo ra cơ hội phát triển cho con người, cho mổi quốc gia nhưng lại nảy sinh những tiêu cực về lối sống làm mất bản sắc văn hóa dân tộc.

Thế giới hiện nay còn chứa đựng những yếu tố khác đe dọa đến sự sống tự do và hạnh phúc của con người như nghèo đói, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khủng bố, chiến tranh xâm lược của các cường quốc…Do đó, mọi chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng đồng quốc tế, của các quốc gia và hành động của mọi cá nhân phải nhằm vào mục tiêu phát triển của xã hội bảo vệ con người sống được tự do và hạnh phúc. Con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần được tôn trọng, cần được bảo vệ, bảo đảm các quyền chính đáng của mình, phải là mục tiêu của mọi tiến bộ xã hội.

3. Bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội

Con người là một thực thể của xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo nên bản chất con người. C.Mac đã nêu lên luận điểm nổi tiếng Luận cương về phơbach “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.

Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội, khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và giới động vật trước hết là bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót của những nhà triết học trước Mac, không thấy được bản chất xã hội của con người. Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các quan hệ này không kết hợp với nhau theo phép tính cộng mà chúng tổng hoà, nghĩa là chúng có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng không tách rời nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau.

Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người không hoàn toàn phụ thuộc vào giới tự nhiên mà đã vươn lên, tách xa thế giới động vật, trở thành con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử. Với vai trò là chủ thể của lịch sử con người phải được tự do, hạnh phúc, phải được phát triển các khả năng của mình nhưng không phải lúc nào ở đâu con người cũng có đủ điều kiện để phát triển toàn diện. Vì vậy, mỗi quốc gia nói riêng, loài người nói chung, phải xem con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội.

4. Chủ nghĩa xã hội là sự phát triển toàn diện của con người

Mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người đều có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân là mục tiêu cao của chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “ tôi chỉ có một ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Chủ nghĩa xã hội phát triển trải qua nhiều bước quanh co, đầy thử thách của lịch sử, nhưng vẫn vững bước đi lên và đạt nhiều kết quả trong mục tiêu vì sự phát triển toàn diện của con người.

Việt Nam là đất nước nghèo do ảnh hưởng của chiến tranh đang từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước luôn coi trọng con người, coi con người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội, thể hiện ở các nhiệm vụ phát triển sau: (1) đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo đói, kém phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên; (2) thực hiện công bằng trong phân phối, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội; (3) giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, phát triển kinh tế phù hợp với từng vùng, miền, thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo; (4) nâng cao đổi mới giáo dục toàn diện, phấn đấu vì sự nghiệp công bằng xã hội. Trong giáo dục thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội văn minh.

Những mục tiêu trên được Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Chính sách cạnh tranh, nội dung và ý nghĩa của nó
Chính sách cạnh tranh, nội dung và ý nghĩa của nó

CHƯƠNG 2: NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1. Khái niệm nhân tố con người và công nghiệp hóa, hiện đại hóa

1.1. Khái niệm nhân tố con người

Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hoà các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định.

Nhân tố con người là khái niệm không chỉ để phân biệt nhân tố “người” với các yếu tố khác: kinh tế, chính trị, xã hội… trong đời sống xã hội, mà quan trọng hơn là để khẳng định vai trò của nhân tố “người” đối với các yếu tố đó. Tức là không có khái niệm nhân tố con người tách khỏi hoạt động, dù đó là hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.

1.2. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Theo văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Từ việc sử dụng sức lao động thủ công là chính sẽ được chuyển sang sử dụng sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp hiện đại, tiên tiến để giúp tạo ra năng suất lao động hiệu quả nhất. Có thể thấy, khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng ta xác định rộng hơn và bao hàm cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh với cả dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội. Tất cả đều được sử dụng trên những phương tiện hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Có thể thấy rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng mới không còn bó hẹp về phạm vi trình độ những lực lượng sản xuất và kỹ thuật đơn thuần nhằm chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí giống như quan niệm trước đây.

2. Quan điểm của Đảng về nhân tố con người và Công nghiệp hóa đất nước

2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tố con người

 Ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định “ con người là vốn quý nhất” và “Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”.

Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, lợi ích riêng và lợi ích chung.

Đại hội lần thứ VII của Đảng “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động”.

Đại hội lần thứ VIII của Đảng “Lấy việc phát huy yếu tố con người là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”

Đại hội lần thứ IX của Đảng “nguồn lực con người là yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nhân nghĩa, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình và cộng đồng xã hội”.

2.2. Quan điểm của Đảng về Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường … Đảng ta xác định một trong tám phương hướng cơ bản từ 2011 đến 2050, thì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là phương hướng cơ bản quan trọng thứ nhất. Bởi vì, xã hội chủ nghĩa mà dân ta xây dựng có một đặc trưng rất quan trọng là: Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.

Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã đưa ra các quan điểm về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta như sau:

 Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệtổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo quan niệm hiện đại mà Đảng ta xác định là: Quá trình chuyển đổi một cách căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.

3. Nhân tố con người đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

3.1. Những điều kiện khách quan ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam

Môi trường tự nhiên

Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm địa hình, khí hậu, tài nguyên sinh thái là một thiên nhiên nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng, chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với con người. Những điều kiện tự nhiên đó kết hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà có ảnh hưởng nhất định đến vai trò hoạt động của nhân tố con người, đến tính tích cực, sáng tạo của con người, lòng say mê hoạt động của họ cũng như tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ trong quá trình xây dựng nước nhà, phát triển kinh tế, xã hội.

Đặc điểm của thiên nhiên Việt Nam, sớm tạo nên sự gắn bó cộng đồng, sự gắn bó quê hương, xóm làng là một trong những cơ sở của tình yêu đất nước; tạo ra sự gắn bó chung sống và hòa đồng giữa con người với thiên nhiên, sự gắn bó con người với con người trong tính cộng đồng cao của truyền thống Việt Nam.

Những nét đặc thù của thiên nhiên Việt Nam kết hợp với điều kiện lịch sử cụ thể mà trong hoạt động thực tiễn sản xuất đã sớm rèn luyện cho con người Việt Nam những đức tính tốt đẹp đáng trân trọng và cần được phát huy đó là: có lòng bao dung độ lượng, thương người như thể thương thân, hoạn nạn có nhau; yêu quê hương nơi chôn rau cắt rốn, yêu thiên nhiên; cần cù chịu khó trong lao động; khả năng thích ứng linh hoạt đối phó với thiên tai bất ngờ. Đặc biệt là sớm hình thành ý thức sức mạnh của cộng đồng mà trong đó sức mạnh của mỗi thành viên được nhân lên trong quá trình khai khẩn đất đai, trị thủy.

Điều kiện kinh tế- xã hội

Việt Nam vốn là một nước có nền sản xuất nhỏ tồn tại phổ biến, lâu dài trong hàng ngàn năm lịch sử. Đặc điểm quan trọng của nền sản xuất nhỏ Việt Nam là cơ sở kỹ thuật thủ công lạc hậu, tư liệu sản xuất thích ứng với sử dụng cá nhân, phân công lao động có tính chất tự nhiên, truyền thống, thời vụ, giới tính, lao động cá thể chiếm ưu thế, năng suất lao động thấp, sản xuất nhỏ lẽ, manh mún, nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp…

Sản xuất theo kinh nghiệm là chủ yếu, các thao tác đơn giản dựa vào thói quen kinh nghiệm trong sản xuất. Sức lao động cơ bắp đóng vai trò quyết định, hoạt động sản xuất phụ thuộc rất lớn vào “ân huệ” của giới tự nhiên ban tặng như độ màu mỡ của đất đai, chim muông, thú rừng…

Nền sản xuất tiểu nông, năng suất lao động thấp, thường chỉ thấy lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ mà không thấy được lợi ích toàn bộ, lâu dài. Phương pháp suy nghĩ nặng về tình cảm, nhẹ về lý trí, không xây dựng kế hoạch hoặc không theo đuổi đến cùng kế hoạch đã đề ra cũng là một trong những hạn chế.

Điều kiện văn hóa – lịch sử

Lịch sử dân tộc ta đã phải trải qua những cuộc chiến tranh tàn khốc, để lại những hậu quả hết sức nặng nề. Đến nay, các thể lực thù địch vẫn thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. Tuy nhiên, chính tính đặc thù trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã tác động sâu sắc đến sự phát triển tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, ý chí quật cường, bất khuất, niềm tự hào dân tộc.

Tinh thần yêu nước, yêu quê hương xứ sở, nơi chôn rau cắt rốn được hun đúc lên và phát triển thành ý thức bảo vệ non sông đất nước, ý thức sâu sắc về lãnh thổ quốc gia.

Độc lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành nguồn động lực tinh thần và có ý nghĩa quyết định trong thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị truyền thống quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Chủ nghĩa yêu nước là nhân tố cơ bản của bản lĩnh dân tộc, bảo đảm sự phát triển bền vững và ổn định của kinh tế, xã hội, bảo đảm giữ gìn bản sắc văn hóa và hội nhập vào cộng đồng khu vực cũng như cộng đồng thế giới. Chính thời kỳ Bắc thuộc hơn một ngàn năm với tất cả những âm mưu đồng hóa của ngoại bang là một thử thách hết sức ác liệt đối với sự tồn vong của đất nước, dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước vẫn là động lực tinh thần nội sinh để chiến thắng bất cứ kẻ thù nào, để xây dựng phát triển đất nước.

Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm tinh thần cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng giữ vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng đầu bậc thang giá trị dân tộc. Tinh thần đó đã được phát huy sức mạnh vô biên của nó trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và là mẫu số chung, là một động lực tinh thần nội sinh của cộng đồng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước.

Chủ nghĩa yêu nước giữ một vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Chủ nghĩa yêu nước là mẫu số chung của mọi người Việt Nam thuộc các dân tộc người, các tầng lớp xã hội và tôn giáo khác nhau cũng như mọi thành viên trong cộng đồng Việt Nam thuộc các xu hướng chính trị khác nhau đang sinh sống ở nước ngoài. Đó là cơ sở chung cần phát huy để đoàn kết tập hợp mọi lực lượng của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước là nhân tố cơ bản của bản lĩnh dân tộc, là động lực nội sinh tạo nên quyết tâm, ý chí, nghị lực và trí tuệ để xây dựng đất nước, vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp trào lưu văn minh của thời đại, đảm bảo sự phát triển bền vững và ổn định, đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc trong giao lưu văn hóa và hội nhập vào cộng đồng khu vực cũng như cộng đồng thế giới.

3.2. Con người là mục tiêu của quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”.

Theo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm mục tiêu “xây dựng nước Việt Nam trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản suất, đời sống vật chất tinh thần cao, an ninh quốc phòng vững chắc, dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.  Mục đích cuối cùng của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta là đều hướng đến con người, phục vụ cho mục đích phát triển con người. Con người trong chủ nghĩa xã hội phải được giải phóng và có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân.

Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đi lên chủ nghĩa xã hội, mục tiêu xây dựng con người được đặt ra một cách thiết thực, trực tiếp. Vấn đề con người là mục tiêu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta là một vấn đề có tính chiến lược. Các văn kiện của Đại hội Đảng đã đề ra đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới là đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện cơ sở vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội. Đây là con đường phát triển bền vững đất nước nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh”.

4. Vai trò của nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

4.1. Nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Thứ nhất, thực hiện cuộc cách mạng khoa học – công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu phải tiến hành bằng cách mạng khoa học, công nghệ. Trong đó, phải xây dựng thành công cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế; tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất, đời sống với hình thức, bước đi, quy mô thích hợp.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải chú trọng xây dựng và phát triển công nghiệp và sản xuất tư liệu sản xuất, trong đó then chốt là công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất nhằm bảo đảm cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến. Đối tượng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trong đó các ngành công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất đặc biệt có ý nghĩa vì các ngành này giữ vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của những ngành khác.

Thứ hai, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội. Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi quốc gia trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành là bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt, là bộ xương của cơ cấu kinh tế. Đảng ta đã xác định “bộ xương” của cơ cấu kinh tế nước ta là  “cơ  cấu  kinh  tế  công  –  nông  nghiệp  – dịch  vụ  gắn  với  phân  công  và  hợp  tác  quốc  tế  sâu  rộng”. Kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn, tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở nước ta; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được nhịp độ (tốc độ) phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và các vùng trong nền kinh tế.

Bên cạnh đó, phân công lao động xã hội – sự chuyên môn hóa lao động, tức là chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động; cùng với cách mạng khoa học và công nghệ, nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:

-Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.

– Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.

– Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.

Ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: Tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu.

Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc  khu  kinh  tế.  Phát  triển  mạnh  mẽ  các  ngành  công  nghiệp  sản  xuất  hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội; phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển gắn với đảm bảo an ninh, quốc phòng và hợp tác quốc tế.

 Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta có những điều kiện và những khả năng để thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Những yếu tố thuận lợi do môi trường quốc tế đem lại cùng những bước chuyển mạnh mẽ do chúng ta tạo ra đã trở thành nguồn lực tổng hợp để đưa đất nước đi lên. Môi trường quốc tế hiện nay có nhiều biểu hiện tích cực rất thuận lợi cho sự phát triển. Đó là xu hướng quốc tế hóa với việc phân công lao động không ngừng phát triển là tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ, đặc biệt là xu thế hoà bình, hợp tác trong khu vực và trên toàn thế giới. Bối cảnh chung đó giúp những nước đi sau như nước ta có điều kiện để nhìn trước trông sau, tìm ra cho mình những nhân tố hợp lý, rút ra cho mình những bài học thành công của các nước đi trước về nhiều lĩnh vực, từ quản lý kinh tế vĩ mô thúc đẩy doanh nghiệp đến bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc dân tộc. Chúng ta có thể tranh thủ được những khả năng về vốn, thị truờng, công nghệ và quản lý thế giới. Đặc biệt là trong những năm tới những thuận lợi đó đang phát triển theo hướng thuận lợi hơn nữa cho chúng ta, đó là những thành tựu của công cuộc đổi mới mở rộng quan hệ đối ngoại của chúng trong những năm gần đây cũng như những diễn biến trên thế giới tạo cho chúng ta những thụân lợi mới, tình hình chính trị, xã hội nước ta ổn định. Hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là luật đầu tư đang từng bước được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, tình hình kinh tế xã hội trong nước ổn định…., cũng là những yếu tố góp phần tạo dựng một môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút nguồn đầu tư từ các doanh nghịêp, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào Việt Nam. Một thế lợi nữa mà chúng ta phải kể đến đó là nguồn tài nguyên Việt Nam. Và trên hết, nhân dân ta vốn có truyền thống yêu nước tinh thần đoàn kết, lòng tự tôn dân tộc với quyết tâm chống nghèo nàn lạc hậu, có tinh thần lao động cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo… Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta sẽ là động lực tinh thần phát huy sức mạnh nội lực thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Song, cũng ta cũng phải thừa nhận rằng, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Nền kinh tế Việt Nam vốn có điểm xuất phát thấp, kỹ thuật canh tác lạc hậu, sản xuất manh mún, lại bị thiên tai, địch hoạ tàn phá nặng nề nên cơ sở vật chất – kỹ thuật, nhất là hệ thống thủy lợi bị xuống cấp nghiêm trọng, vốn đầu tư lại bị thiếu. Một số thế lực vẫn muốn âm mưu diễn biến hoà bình để chống phá cách mạng nước ta, nạn quan liêu tham nhũng vẫn còn là nguy cơ lớn. Yếu tố thị trường, chúng ta đang phải đối mặt với những điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn so với giai đoạn trước đó. Thị trường Việt Nam ra đời còn quá non trẻ như thị trường tiền tệ, thị trường lao động bất động sản kể cả thị trường chất xám…mặt khác cơ chế thị trường vận động còn những trục trặc chưa thật thông suốt. Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh với Việt Nam có nhiều lợi thế hơn về trình độ công nghệ, kinh nghiệm buôn bán quốc tế. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực cũng như năng suất lao động cũng là yếu tố cần phải đặc biệt quan tâm cải thiện.

4.2. Vai trò của nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Trong bất cứ thời đại lịch sử nào quyết định sự phát triển sản xuất là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội và là cơ sở của sự tiến bộ lịch sử không phải là nhân tố nào khác mà là hoạt động của nhân tố con người. Trong thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất của mỗi quốc gia chính là con người. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo môi trường thuận lợi để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có cơ hội phát huy mọi năng lực sáng tạo.

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một trong những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành công những thuận lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà quá trình đó đặt ra hay không phụ thuộc đáng kể vào con người.

Từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chú trọng đến quyền làm chủ của nhân dân lao động “thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”. Với quan điểm này, mọi chủ trương, chính sách của Đảng đều chú trọng đến việc chăm lo bồi dưỡng phát huy nhân tố con người. Tại Đại hội VII, trong Cương lĩnh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo. Vì vậy, phương hướng, mục tiêu lớn của chính sách xã hội được đề cập trong Cương lĩnh, Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Quan điểm này của Đảng được xây dựng trên những cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và xuất phát từ đặc điểm lịch sử cụ thể của đất nước. Do đó, Đảng ta khẳng định phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện các chính sách xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà trong xã hội, trong đó con người được đặt vào vị trí trung tâm. 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Xã hội ta là xã hội vì con người và coi con người luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế xã hội. Con người trước hết là tiềm năng trí tuệ, tinh thần, đạo đức, là nhân tố quyết định là vốn quý nhất của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan điểm đó được thực hiện ở chủ trương “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Kế thừa quan điểm về phát huy nhân tố con người từ các đại hội trước, trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2015, Đảng ta xác định: tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển; tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá phù hợp với hoàn cảnh nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh Việt Nam tích cực, chủ động tham gia hội nhập quốc tế, với sự cạnh tranh diễn ra vô cùng quyết liệt và cuộc cách mạng khoa học, công nghệ. Đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức đòi hỏi nước ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người.

Ngày nay, với thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khoa học ngày càng “trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, đúng như dự đoán của Mác. Một bước ngoặt mới về chất của nền sản xuất xã hội đã mở ra, mà trong đó đặc biệt hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu cấu thành sản phẩm. Do xu thế mới của thời đại mở ra xu thế chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế trí tuệ. Con người càng trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất xã hội, nguồn lực vô tận không bao giờ cạn kiệt.

Nhân tố tài nguyên thiên nhiên là cái sẵn có, có hạn, được con người khai thác trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Cho nên, tài nguyên thiên nhiên dù có phong phú đến mức nào đó mà không được con người khai thác một cách hợp lý sẽ làm cho nó chóng cạn kiệt và mặt khác, những hậu quả khôn lường của nó nguy hiểm đến sự tồn sinh của con người. Bởi vậy, tài nguyên thiên nhiên chỉ trở thành một nhân tố cho sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững khi và chỉ khi biết phát huy tính tích cực, tự giác, năng động, sáng tạo của nhân tố con người nhằm khai thác nó một cách có hiệu quả nhất, bảo vệ tốt nhất môi trường tự nhiên trong lành vì sự sống của con người. Do đó, yêu cầu cấp thiết của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải phát huy vai trò nhân tố con người nhằm bảo vệ và từng bước khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học vì tương lai lâu dài của đất nước và của cả nhân loại.

Về nhân tố kỹ thuật được hiểu là:

Toàn bộ công cụ lao động và các tư liệu lao động khác mà xã hội dùng để khai thác và chế biến sản phẩm tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình; một trong những bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất xã hội… Sự phát triển của kỹ thuật liên hệ trực tiếp với sự phát triển của khoa học tự nhiên và phụ thuộc lẫn nhau….

Nhân tố kỹ thuật, đặc biệt là máy móc hiện đại đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội khi được kết hợp với sức lao động của con người. Công cụ lao động như Ăngghen nói là “khí quan của bộ óc”, là sức mạnh trí tuệ con người. Bởi vậy, khi công cụ lao động đạt tới trình độ tin học hóa, được tự động hóa… thì vai trò “khí quan vật chất” của nó trở nên kỳ diệu. Nhưng trong điều kiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhân tố kỹ thuật còn là phương tiện hữu hiệu để thực hiện sự tha hóa bản chất con người. Chỉ khi hoàn toàn xóa bỏ chế độ tư hữu thì nhân tố kỹ thuật mới thực sự trở thành duy nhất chỉ là phương tiện cho con người trở về với bản chất đích thực của con người với tư cách là con người xã hội.

Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhân tố kỹ thuật là sự vật chất hóa những thành tựu của tri thức nhân loại đóng vai trò to lớn hơn bao giờ hết để lao động sống đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Cho nên, nó là phương tiện để phát huy có hiệu quả nhất vai trò nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Nhân tố kỹ thuật chỉ là phương tiện, khả năng sử dụng nó là do con người, do trình độ hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo của họ quyết định. Do đó, để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công trước hết phải chăm lo bồi dưỡng nguồn lực con người. Ngay cả khi có vốn lớn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cũng chỉ được phát huy sức mạnh khi con người biết sử dụng có mục đích, đúng mục đích và có hiệu quả.

Nhân tố quốc tế: Điểm nổi bật là do thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa nền sản xuất và đời sống xã hội là một tất yếu đang diễn ra cuốn hút tất cả các nước vào quá trình hội nhập quốc tế. Đây là cơ hội lớn để chúng ta đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhưng, sự tác động của toàn cầu hóa đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thông qua con người, phụ thuộc vào việc con người tiếp thu vận dụng được hay không những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phụ thuộc vào khả năng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa hay không. Bởi lẽ, những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa cũng đem lại cho chủ nghĩa tư bản hiện đại nhiều phương tiện tối tân hơn và điều kiện dễ dàng hơn để bắt tất cả các nước phải hàng phục nó, phải trở thành tư sản. Do đó, cái có tính quyết định cho sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững vẫn phải là bồi dưỡng, phát triển nhân tố con người cả về trí tuệ, năng lực, phẩm chất đạo đức cách mạng.

Từ sự phân tích trên cho thấy tất cả các nhân tố của quá trình phát triển kinh tế – xã hội thì nhân tố con người là trung tâm, là đóng vai trò quyết định.

Phát huy nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội

Nhân tố con người là động lực thúc đẩy các quá trình kinh tế – xã hội, mà kết quả cuối cùng đạt được là đem lại điều kiện thực tế cho việc giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, đưa “con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”. Theo Mác, đó cũng chính là quá trình mà nhân loại tự tạo ra những điều kiện, những khả năng do chính mình đem lại sự phát triển toàn diện, tự do và hài hòa cho mỗi cá nhân con người trong cộng đồng xã hội. Xuất phát từ bản chất của chủ nghĩa xã hội, phát huy nhân tố con người, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

5. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

          Đại hội XII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”. Để phát huy tối đa nhân tố con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có chiến lược đào tạo, phát triển nguồn lực con người Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020. Trong đó nêu rõ: mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình, được triển khai thực hiện bằng các biện pháp, hành động cụ thể, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả một số cơ chế, chính sách ưu đãi trong công tác đào tạo và thu hút nhân tài (chế độ tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, điều kiện và các phương tiện làm việc)… nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám. Đặc biệt là xây dựng và phát triển đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ chuyên gia quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học – công nghệ đầu đàn.

Xây dựng cơ chế, chính sách cán bộ tương đối toàn diện, đồng bộ từ quy hoạch nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đánh giá, sử dụng, đãi ngộ,v.v.. Công tác cán bộ được thực hiện theo nguyên tắc: “Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút…”; có chính sách thu hút nguồn nhân lực là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng, phát triển đất nước. Đảng đã ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26-3-2004 về Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tiềm lực và phát huy nhân tố con người của Việt kiều, nhất là những người có tài, các nhà doanh nghiệp đóng góp về vật chất, tinh thần, tài năng cho sự nghiệp xây dựng đất nước.

Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề cho giai cấp công nhân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang tạo ra một nhu cầu mới về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đặc thù của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh cao, lao động và việc làm cũng không ngoài tình trạng đó. Sự cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi lực lượng lao động cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp và cơ bản. Do đó, chất lượng lao động, nguồn nhân lực mới là nhân tố quyết định cho sự phát triển và tăng trưởng cao. Đối với người lao động, khi tham gia thị trường lao động nếu chưa được đào tạo cơ bản, đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường lao động, thì rất khó tìm được việc làm, và nếu có, thì cũng thường là việc làm không ổn định, lao động giản đơn, nặng nhọc và thu nhập thấp. Tính cạnh tranh cao của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực vừa đông đảo, có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng kịp thời và lâu dài nhu cầu nguồn lực con người cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Xây dựng hệ thống các chính sách đối với từng giai tầng xã hội để phát huy tối đa tiềm năng, sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập. Thống nhất nhận thức về phát huy nhân tố con người, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện cho mỗi người phát triển toàn diện, phát huy tối đa tài năng, năng lực của cá nhân cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt là  phát huy dân chủ là phát huy vai trò là chủ, làm chủ của nhân dân. Nhân dân có quyền học tập, lao động sáng tạo, quyền cống hiến, quyền phát huy vai trò của chính mình,v.v.. Nếu nhân dân không phát huy được vai trò của chính mình thì không thể nói đến phát huy nhân tố con người, khi phát huy được các năng lực của nhân tố con người là phát huy được động lực phát triển của xã hội. Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, chống dân chủ hình thức.

Giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân – tập thể – xã hội – dân tộc. Động lực sâu xa thúc đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Lợi ích chính là sản phẩm hoạt động của con người, là sự kết tinh, đối tượng hóa bản chất con người, là cái mang quan hệ xã hội. Triết học Mác-Lênin cho rằng, lợi ích là cái liên kết các thành viên trong xã hội, nó được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau và làm cơ sở cho việc xác lập các quan hệ giữa họ. Do vậy, cái làm cho con người tích cực hoạt động chính là lợi ích. Vì vậy, phát huy nhân tố con người đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng và hài hòa lợi ích cá nhân – tập thể – xã hội – dân tộc. Tất nhiên chúng ta coi trọng lợi ích cá nhân chính đáng nhưng chống chủ nghĩa cá nhân. Đồng thời, cũng chống việc tuyệt đối hóa lợi ích tập thể mà quên lợi ích cá nhân chính đáng.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, dân tộc. Có phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thì mới phát huy được nhân tố con người Việt Nam. Đây cũng là truyền thống quý báu, tốt đẹp của dân tộc, của con người Việt Nam, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh nhân tố con người. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được hưởng thụ thành quả của đổi mới. Có chính sách cụ thể để phát huy sức mạnh, lợi thế của từng tầng lớp, từ công nhân, nông dân, trí thức đến người Việt Nam ở nước ngoài.

KẾT LUẬN 

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển tất yếu của mỗi quốc gia. Ở đó, lực lượng sản xuất đạt trình độ tương đối hiện đại, quan hệ sản xuất và chế độ quản lý, chế độ phân phối gắn kết với nhau phát huy được các nguồn lực tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Đó cũng là xu thế và là con đường phát triển của nước ta hiện nay để đi đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.      

Để thực hiện thành công sụ nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ta xác định và chỉ rõ nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một trong những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành công những thuận lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà quá trình đó đặt ra hay không phụ thuộc đáng kể vào con người, con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.

Song song với tăng trưởng, phát triển kinh tế chúng ta phải thực hiện cho được việc cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vì sự phát triển con người Việt Nam toàn diện, phát triển toàn diện con người phải là giá trị tối cao và là mục đích của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Bộ giáo dục và đào tạo (2011 ). Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội.

2.  Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nhà xuất bản Chính trị – hành chính.

3. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc, Nxb Chính trị quốc gia.

4. Hoàng Chí Bảo (1993), ‘Đổi mới ở Việt Nam. Một số vấn đề về con người và xã hội”, Tạp chí Cộng sản, tháng 1

5.  Hội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mac – LêNin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mac –LêNin, Nhà xuất bản Chính trị – hành chính.

6. Võ Thị Bích Thủy, Vấn đề con người và phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta , Trường chính trị Lâm Đồng.

7. Nguyễn Thanh, (10/1996 ), Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Tạp trí triết học số 5.

8. Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 9. Nhà Xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội – 1996. Các Mác – Ăngghen toàn tập. Tập 26. Phần II. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội – 1995.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

10. Bài viết công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải là một nội dung quan trọng trong chủ đề của Báo cáo chính trị (đăng trên báo điện tử ĐCSVN ngày 11/11/2020) 11. Bài viết đẩy mạnh phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo trong đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước – điểm nhấn quan trọng trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 10/8/2021).

5/5 - (2 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *